Mị Châu - Trọng Thủy: Nghiệt phận, bi tình? - Hoạ Thuỷ Tiên
MỊ CHÂU - TRỌNG THUỶNghiệt phận, bi tình?
Hoạ Thuỷ Tiên
* * *
Văn Án
Cho phép tôi xuyên qua hai ngàn năm lịch sử,
Đến vùng đất Âu Lạc, đến thủa Hồng Bàng.
Cho phép tôi đi tới cõi âm dương cách biệt,
Đó là nơi âm hồn trú ngụ, chờ buổi đầu thai.
Cho phép tôi hóa thân nàng Mỵ Châu công chúa,
Kể tiếp mối nghiệt tình đang thủa đậm sâu.
Tôi sẽ viết ngày trùng phùng, Mỵ Châu-Trọng Thủy
Ngày gặp lại đau xót khôn nguôi
Cũng là ngày lứa đôi vui mừng đoàn tụ.
Nhưng liệu kia nỗi nước thù nhà
Là mối hận vong quốc, thân ta phải trả!
Nhưng thử hỏi tình yêu kia là thật?
Chàng có đúng khi đã nói yêu ta?
Câu hỏi day dứt, trả giá một đời.
Thôi xin hãy để thời gian kiểm chứng,
Để ngày gặp lại ở chốn âm ti.
Trên dương gian lại thầm thì câu chuyện:
“Nàng sinh ra là công chúa nước Nam,
Đem lòng yêu chàng hoàng tử đất Bắc.
Nghiệt duyên chi lại mắc nỗi oan nhà.
Nước mất nhà tan, cõi lòng đau xót,
Làm sao cho chọn khôn nỗi bi thương?”
Đây là điều bí ẩn chưa một lời giải đáp,
Hậu thế tò mò, duyên kiếp chung trinh?
Nay viết tiếp một chuyện tình dang dở,
Mỵ Châu-Trọng Thủy: Nghiệt phận hay nỗi bi tình?
* * *
Hồi 1: Mị Châu
Chương 1: Công Chúa Vong Quốc
Truyện mang tình tiết hư cấu và nội dung đều là tưởng tượng, không mang ý xuyên tạc hay xúc phạm bất cứ nhân vật lịch sử nào.
Cách đây hai ngàn năm đằng đẵng.
Có một mối liên hôn khiến người đời coi đó là một sự sai lầm.
Có một chuyện tình mà người ta gọi đó là oan nghiệt.
Nàng hết lòng yêu thương đức lang quân, vì tin tưởng mà đem bí mật quốc gia ra tiết lộ. Nào ngờ đâu phu quân bội bạc, nước mất nhà tan, thân tình đổ máu…
Bi kịch Mỵ Châu-Trọng Thủy, mỗi khi nhắc lại:
Có người nhăn mày căm phẫn, lại có người nhỏ nước mắt cảm thương. Đành là vậy, nhưng vẫn không thôi thắc mắc:
Liệu Trọng Thủy có yêu Mỵ Châu?
Câu hỏi tự ngàn xưa, người đời nghi hoặc, nhưng cũng chẳng ai tỏ, ai tường. Chuyện như nào, chắc chỉ người trong cuộc mới hay.
***
Ta là Mỵ Châu, là con gái của Thục Phán-An Dương Vương. Khi xưa mang tội phản quốc, bị vua cha đích thân hành quyết nơi núi Mộ Dạ. Lưu đày chốn âm ti địa phủ, nay đã tròn ba năm.
Nhắc lại chuyện năm xưa, lòng ta lại dội lên muôn phần đau xót. Làm sao ta quên, làm sao ta có thể quên? Những hồi ức về ngày kinh hoàng đó vẫn in hằn trong tâm trí ta, không nào quên được. Đó là một ngày đất trời dường như xoay chuyển, cuốn văng đi mọi thứ, phá tan đi tất cả. Hồ như hạnh phúc của ta, phụ vương của ta, Trọng Thủy của ta cũng vì nó mà biến mất.
Ta còn nhớ hôm đó đã là một ngày nắng đẹp, tiếng chim hót véo von trên những bông đào đang nở rộ, như khúc ca tiễn đưa những sắc hồng đào đang chấp chới. Rồi một làn gió nhẹ cũng dứt khoát đưa những cánh hoa đi, đưa nó bay la đà với mặt đất. Trời xuân khung cảnh đẹp đến say đắm lòng người, thu hút những kẻ lai vãn ngắm cảnh. Ta đang mê mải lặng nhìn cảnh xuân trước mắt, mới chợt nhận ra sắc trời đã thay đổi, biến đổi một cách lạ lùng.
Bầu trời đang trong xanh đã nhanh chóng không còn một gợn mây, những tia nắng cũng rút dần khỏi đường chân trời, không gian chợt trở nên âm u kì lạ. Rồi từ đâu mây đen vần vũ kéo đến, sắc trời xám xịt, chốc chốc tia sét lóe lên cùng với tiếng sấm dậy vang đất trời nhưng tuyệt nhiên không hề có một giọt mưa. Lòng ta chợt dâng lên một dự cảm chẳng lành, tim ta chợt như bị bóp nghẹt, ta linh cảm thấy điều gì rất khủng khiếp sẽ đổ xuống vùng đất Âu Lạc tươi đẹp này.
Lát sau, tiếng ầm ĩ náo loạn, tiếng la hét thất thanh rồi tiếng rầm rậm dội tới từ phía Bắc thành Cổ Loa làm ta hốt hoảng, không rõ chuyện gì đang sảy ra. Vội chạy ra khỏi vườn hoa thì tiếng tù và vang lên dồn dập. Dự cảm chẳng lành trong lòng ta lại như bùng lên, dữ dội tới mức ta đành phải thừa nhận nó. Tù và là vật chỉ dùng trong các lễ hội, lễ cúng tế của người Âu Lạc chúng ta, ngoài ra nó còn được dùng để… Ôi không! Tim ta thắt lại khi nghĩ tới tình huống này.
“Tù và là vật để báo động chiến tranh.”
Cánh môi ta run rấy thốt ra từng chữ rồi khẽ đưa tay nhẩm tính, Trọng Thủy chàng ấy đã trở về phương Bắc đúng mười ngày.
Khi ta đi tới chính điện của vua cha, thì Người cũng đang sốt sắng tìm ta, thấy ta trở lại, Người vui mừng khôn xiết kéo ta ngồi tới bàn trà. Ta nóng vội cất tiếng hỏi, nhưng thanh âm chưa kịp phát ra thì vệ quân từ đâu vội vàng chạy tới, hốt hoảng tấu thưa:
“Bệ hạ, bệ hạ nguy rồi! Nam Việt đang đem quân tấn công vào thành.”
Chén trà trên tay bỗng rơi xuống đất, màu trà Diên Hựu đổ xuống lập tức biến thành màu đỏ như máu, ta lo lắng quay sang nhìn phụ vương, Người như đã sớm biết, lại không hề ngạc nhiên mà chỉ cười lớn:
“Bọn chúng không biết sợ ư? Haha, hôm nay ta sẽ cho các ngươi thất bại tâm phục khẩu phục. Người đâu! Truyền lệnh ta, đem Nỏ thần ra ứng biến.”
Nói xong phụ vương quay người bước đi, nhưng vẫn không quên căn dặn lính gác bảo vệ cho ta. Nhìn chiếc áo hoàng bào thêu hình chim lạc khuất sau cách cửa, ta bỗng đứng không vững. Trời ơi! Sao lại như thế này, không phải đất nước Nam Việt của chàng đang hòa hoãn với bên ta sao, Trọng Thủy chàng ấy có biết chuyện này không? Hai nước khi xưa đối đầu, nhưng chẳng phải mối liên hôn này đã hóa giải tất cả sao, chính cha của chàng đã là người tác thành cho chúng ta sao?
Lòng ta bỗng bỗng ngổn ngang suy nghĩ, bứt dứt không yên, cho tới khi nghe thấy phía cổng thành vang lên một tiếng động lớn, rồi những tiếng gào thét inh tai cứ liên tục truyền tới, cuối cùng ta cũng không nhịn được lao ra ngoài, nhìn Cổ Loa thành từ nơi trung tâm cao nhất.
Gió lồng lộng thổi, phảng phất quanh ta là mùi máu tanh. Khung cảnh trước mắt ta thật quá đỗi kinh hoàng. Cổng chính Loa thành đã bị phá, quân giặc hung hăng tràn vào, mặc sức mà chém giết chúng dân, tàn bạo mà đốt phá nhà cửa. Không còn những hình ảnh yên vui, trù phú hôm nào, dưới thành là khung cảnh hoang tàn, thê lương đến cùng cực. Tiếng khóc kêu quyện với những ngọn khói, nghi ngút mà bốc lên tới tận trời xanh. Ta bỗng hoang mang tột độ.
Làm sao có chuyện như vậy, Nỏ thần chẳng phải là thần vật sao? Ta chợt nghĩ đến Trọng Thủy chàng rất có hứng thú với báu vật này, hôm đó chàng đã đề nghị ta cho xem móng.. Một ý nghĩ bỗng nảy đến đến khiến ta phải rùng mình sợ hãi. Chẳng lẽ…Không! Chàng sẽ không phản bội ta, chàng sẽ không làm vậy đâu. Ta lắc đầu tự nhủ thầm, ngây thơ mà tin tưởng phu quân.
Liền sau lưng ta là tiếng ngựa hí thắng cương, phụ vương kia rồi, nhưng Người chỉ nói một tiếng “Đi mau!” rồi nhanh chóng kéo ta lên yên, thúc ngựa phi nước đại. Ta nhìn phụ vương, chỉ quãng thời gian ngắn ngủi mà dường như khí chất đế vương đạo mạo, uy nghiêm đã biến đi đâu mất, sự tiều tụy của Người hiện rõ trên mái tóc đã xổ tung, khuôn mặt đã thoáng nét âu lo, thất thần. Nhìn Người ta đoán biết được chuyện gì đã xảy ra và tình hình nguy cấp lúc này. Ta chỉ im lặng ngồi sau vua cha, không hỏi gì cả. Không phải vì ta không muốn nghe, mà là ta không dám nghe.
Người và ngựa cứ thế đi ra khỏi nơi tàn khốc, ta lưu luyến nhìn về phía lũy thành kia, nơi những tiếng khóc than vẫn còn vang vọng. Nhìn gò đống ngổn ngang ấy, ta tự hỏi, liệu chúng có ngổn ngang bằng lòng ta. Nhìn khung cảnh Hỡi ôi! Thành ốc vững chãi phút chốc sụp đổ, một đất nước cứ thế mà suy tàn, hỏi sao mà không đau xót. Khi xưa vua cha bao công gây dựng, bao mồ hôi xương máu thần dân đã đổ xuống, để nước nhà được như hôm nay, vậy mà giờ đây, nước mất rồi, chúng dân rồi sẽ ra sao? Những ngày tháng yên bình đâu còn nữa, bão tố phong ba lại đổ xuống, nhấn chìm Âu Lạc đắm xuống đáy biển sâu. Lòng ta bỗng muôn phần hổ thẹn, thân là công chúa vong quốc, nay nước nhà lâm nguy, chúng dân khổ ải, đã không làm gì cho được, lại bỏ nơi đây mà trốn chạy. Trọng Thủy chàng ấy, liệu có biết chuyện này không? Nhất định là chàng không biết, chàng chắc chắn sẽ không phản bội ta. Ta rất muốn gặp chàng, hỏi chàng chuyện này là sao, nhưng Giờ ta với chàng ly biệt, biết khi nào mới gặp lại nhau. Nay ta đi cùng vua cha, chàng biết tìm ta ở đâu? Đang lo lắng thì bên tai ta lại bỗng vang vọng thanh âm trầm ấm dịu dàng của chàng, ta nhớ chàng đã từng hỏi ta:
“Mỵ Châu, nếu sau này li biệt, biết thế nào để tìm được nhau?”
“Sao chàng lại nghĩ tới chuyện đó vậy? À thiếp có chiếc gối lông, khi có sự thì thiếp sẽ mang lông vũ ra dải làm dấu được không?”
Nghĩ đến đây ta mừng rỡ kéo chiếc gối lông ngỗng luôn mang bên mình ra, lấy từng nắm lông vũ mà thả xuống đường đi. Những chiếc lông trắng muốt nương theo từng vó ngựa mà tung bay trên không trung, giữa một khung cảnh núi non hùng vĩ, tựa như những bông tuyết lạc mùa, đẹp đến cô độc.
Hàng cây hai bên đường ngày càng rậm rạp, dốc núi ngày một cao, theo đường đi này có lẽ vua cha đang đưa ta tới núi Mộ dạ, ngọn núi kế bên chiếc hồ nơi thần Kim Quy trú ngụ.
Bỗng ta nghe xa xa có tiếng vó ngựa dồn dập, tiếng vọng ngày một gần. Lòng ta vui mừng khôn xiết, là chàng, chàng nhất định đang đi tìm ta. Nhìn những dải lông trắng muốt trên đường, ta thầm cầu nguyện cho chàng sớm tìm được đến đây. Khi những chiếc lông vũ cuối cùng rơi xuống, nằm im lìm trên mặt đất, cũng là lúc vua cha thắng ngựa, dừng lại.
* * *
Chương 2: Huyết Đổ Mai Tàn
Đối lập với khung cảnh hỗn loạn nơi thành Cổ Loa, mặt hồ khuất sau núi yên vắng đến lạ. Mọi cảnh vật ở vùng đất linh thiêng này đều im lìm đầy ngạo nghễ, ngoài tiếng vó ngựa văng vẳng truyền đến, phá vỡ bầu không khí thanh nghiêm. Thì còn hai kẻ phàm phu tục tử là cha con ta tới lánh nạn.
Vua cha xuống ngựa, nặng nề thở dài một tiếng, hướng về phía mặt hồ phẳng lặng mà kêu lên:
“Ông trời nỡ tuyệt đường ta!”
Tức thì mặt hồ dậy sóng, làn nước cuồn cuộn bốc lên cao. Bọt nước lại như đang ngậm một khối căm hờn, không ngừng phun trào giữa không trung. Thần Kim Quy xuất hiện trên đỉnh lưỡi sóng, toàn thân là một màu vàng chói mắt, tỏa ra vầng hào quang xung quanh mình, nổi bật giữa khung cảnh âm u tĩnh lặng. Nhưng so với vẻ ngoài chói lóa của Thần, điều khiến ta khiếp sợ là đôi mắt đỏ ngầu đầy giận dữ đang nhìn ta chằm chằm. Thần Kim Quy giơ vuốt lên chỉ thẳng vào ta mà rằng:
“Giặc đang ở sau lưng nhà vua.”
Ta thất kinh. ‘Giặc’ ư? Làm sao ta có thể là giặc cơ chứ? Ta suốt đời tôn thờ một chữ ‘hiếu’ sao lại làm chuyện phản nghịch với vua cha. Hà cớ gì thần Kim Quy lại tố ta là giặc. Ta trợn tròn mắt, lắp bắp hướng về vua cha không biết nói câu gì.
Vua cha cũng hoảng hốt không kém, nhìn ta với ánh mắt không tin nổi. Rồi người hết quay sang ta rồi lại nhìn thần Kim Quy , vẻ mặt mâu thuẫn tột cùng.
Tiếng ngựa từ xa truyền đến, thần sắc vua cha bỗng suy sụp, khuôn mặt người tái nhợt đi khi nhìn tới dải lông ngỗng trên đường. Đôi mắt người ngập tràn giận dữ, người hét lên:
“Sao ngươi dám!”
Cùng với thanh âm thốt ra là lưỡi kiếm vung lên, chém một đường sắc lẹm vào không khí. Rồi nhắm cổ ta mà hướng xuống. Trước ranh giới sinh tử mong manh, ta còn kịp nhìn thấy một tia đau xót trong đáy mắt vua cha, người nhìn ta đầy thống khổ. Khiến phận làm con muôn phần đau đớn. Giây phút ngã xuống, tiếng vó ngựa đã vọng tới hai bên tai ta, chàng tới rồi…
***
Thật ra sau này khi đã hiểu hết mọi chuyện, ta không những không trách vua cha ra tay tuyệt tình, mà còn cho là người đã làm đúng. Vua cha thân là vương một nước, lại để sa cơ đồ vào tay giặc, khiến muôn dân lầm than khốn cực. Mà người gián tiếp gây ra chuyện đó, lại là đứa con duy nhất người hết mực thương yêu, là Mỵ Châu ta. Lúc xuống tay với ta, ta biết vua cha đã vô cùng đau khổ, xét cho cùng người cũng là một người cha, lại chính tay xử tử con mình, hẳn là rất khó khăn. Nhưng là vua một nước, người đã lấy đại cục làm trọng, đích thân hành án với kẻ phản quốc đã gây ra đại họa cho nước nhà.
An Dương Vương người, trăm năm tiết khí, dũng trí công minh. Dù sau khi tuẫn kiết người đã sớm đầu thai, cha con âm dương cách biệt nhưng trong sâu thẳm trái tim ta, người vẫn là người cha vĩ đại mà ta muôn phần yêu thương nể trọng. Nếu sau này có duyên gặp lại ở chốn dương gian, ta nguyện được một lần nữa là con của người, hoặc chí ít là được làm tì nô hầu hạ người. Trả hết chữ ‘hiếu’ kiếp này còn dang dở.
Còn về phần Trọng Thủy, mặc dù chàng đã lừa ta, khiến ta tan cửa nát nhà, muôn đời phỉ nhổ. Nhưng ta cũng không nỡ trách chàng. Chắc chắn chàng cũng có nỗi khổ khó nói, chàng là hoàng tử xứ Bắc, sinh trưởng trong hoàng thân vọng tộc, ắt lẽ giúp phụ vương việc nước cũng là chuyện thường tình. Chỉ là Triệu Đà quá mức ngoan độc, bày ra mưu kế thâm hiểm. Khiến người ta mắc bẫy, phải chịu thua trước hắn. Khiến chàng vì vậy mà phụ ta.
Có trách thì hãy trách ta, lại hồ đồ mà mang bí mật quốc gia ra tiết lộ. Phải chăng lúc ấy ta đã cự tuyệt chàng. Phải chăng khi ấy ta sáng suốt nhận ra ý đồ của chàng, suy xét kĩ lưỡng về tình cảnh chính trị của hai quốc gia thì đã không gây ra sự ngày hôm nay. Phải chăng…
Nhưng giờ thì đã muộn rồi, còn phải chăng gì nữa, ta chỉ còn biết ngồi đây, hận mình, hận số trời khắc nghiệt. Sao lại cho ta gặp chàng trong tình cảnh ấy. Sao ta lại là công chúa nước Nam và chàng lại là hoàng tử xứ Bắc. Số phận oan trái đã đẩy chàng với ta vào vòng xoáy tham quyền. Khiến hạnh phúc hai ta không được trọn vẹn. Sự thật mới xót xa làm sao.
Đôi lúc ta thầm nghĩ, nếu ta và chàng đều là những người dân thuần phác, chắc hẳn ta và chàng sẽ hạnh phúc lắm, rồi chúng ta sẽ có con, những đứa con bé bỏng đáng yêu của ta và chàng. Hẳn lúc đó cuộc sống sẽ thật dễ chịu tốt đẹp làm sao.
Có một điều ta luôn hồ nghi, luôn lo sợ. Đó là liệu Trọng THủy chàng ấy có thật lòng yêu ta. Nếu những lời thề nguyền của chàng là giả dối, nếu những cử chỉ yêu thương chỉ là lừa gạt. Thì… ta biết phải làm sao? Mỗi lần nghĩ đến khả năng này, tim ta lại như bị bóp nghẹt. Ta rất sợ ngày nào đó gặp lại, chàng cười vào mặt ta và nói ta ngu ngốc. Bị chàng điều khiển mà không hay, ngoan ngoãn làm theo, bán nước, bán cả thân tình. Bởi vậy, dù ta rất muốn gặp lại phu quân nhưng lại rất sợ chàng không yêu ta thật, sẽ ruồng bỏ tuyệt tình với ta. Cho nên không gặp vẫn hơn. Ít nhất ta có thể nghĩ theo hướng ngược lại một cách dễ dàng. Vẽ ra một khung cảnh hạnh phúc nào đó ở nơi u ti âm lạnh này.
Khi tình yêu bị vấy bẩn bởi vòng xoáy vương quyền thật đáng sợ, thật không phân biệt được đâu là sự thật và đâu là là giả dối. Hoặc giả tình yêu có là thật thì nó cũng sẽ sớm bị phá hủy, bởi sự mong manh yếu ớt ấy làm sao chống chịu được cơn cuồng phong quyền lực tối đen hiểm ác.
Nghĩ tới đây, ta khẽ thở dài một tiếng. Lại nhận ra mình đã ngồi đây khá lâu rồi. Trước mặt ta là một đoạn của sông Tử Tuyền. Đây là nơi những linh hồn sau khi chết sẽ đi theo bọn quỷ nha sai xuống địa ngục, hay nói cách khác chính là nơi giao nhau giữa dương gian và âm phủ. Ta nhìn lớp sương mờ mờ đang phủ trên bờ sông, lòng bỗng dậy lên bao cảm giác thương nhớ. Ở đó là nơi ta sinh ra và lớn lên, chứa đựng bao kí ức êm đẹp, nhẹ nhàng. Mặc dù đó có chứa khá nhiều những hoài niệm đớn đau. Nhưng so với chốn âm thế lạnh lẽo này thì đó là nơi thật ấm áp và vui vẻ biết bao.
Ta khẽ liếc ráng chiều đỏ rực phía bên kia, hoàng hôn đang phủ chiếu lên dòng sông đỏ tươi như máu, lấp lánh như một dải lụa thấm đẫm huyết đỏ của ai kia. Trời lại sắp tối, chỉ chút nữa thôi dòng người chết sẽ lại đổ xuống địa phủ, tiếp thêm phần âm khí lạnh lẽo cho vùng đất vốn đã đầy tà khí này. Cây cối quanh ta bắt đầu run rẩy, những chiếc là mang hình thù kì quái, quỷ dị lung lay, nương theo cơn gió mà nhảy nhót. Như những âm hồn nhảy lên vũ điệu chào đón người mới tới.
Thật ra chốn âm phủ cũng như trần gian, cũng có cỏ cây hoa lá, cũng có nhà cửa, sông núi. chỉ là vì đây là chốn cho người âm, nên cái gì cũng đầy quỷ dị, hình dáng gớm ghiếc. Chỉ duy có gốc cây bích đào nơi ta đang ngồi này là bình thường, thậm chí hoa nở còn đẹp hơn trên trần gian. Nghe đâu cây đào này do một yêu nữ có tên Đào Anh đem xuống trồng, khi xưa nàng nàng ngây thơ tin tưởng người mình yêu mà bị hại chết thảm. Cha mẹ nàng biết nàng thích hoa đào nên đau khổ mà chôn nàng theo gốc đào này. Từ đó ngày đêm Đào Anh đều ngồi ở gốc đào này trông ngóng tung tích người yêu để nung nấu trả thù, rồi hai người gặp được nhau, nhưng sau khi hại đã được chàng ta thì nàng mới biết mình đã hiểu lầm chàng. Cũng chính giờ phút ấy, nàng được siêu sinh.
Nhưng Đào Anh không làm vậy, nàng dành hết sinh khí của mình cho cây đào này, còn bản thân vĩnh viễn lưu đầy nơi tám tầng địa ngục như một sự đền tội. Mãi mãi không thoát ra được.
Khi nghe câu chuyện của Đào Anh, ta bỗng rơi nước mắt. Phần vì cám cảnh số kiếp tai ương của nàng, phần vì cảm thấy ta và nàng số phận có đôi nét tương đồng, khóc cũng là cho đôi bên. Từ đó ngày nào ta cũng ra gốc đào này, cảm thấy mình như nàng Đào Anh vậy, chỉ là so với nàng ta không hề thù hận Trọng Thủy.
Tiếng kèn mõ kêu lên một hồi làm ta giật mình. Bất kì âm thanh nào nơi đây cũng đều rùng rợn và đáng sợ cả. Tiếng kêu tựa như một âm hồn đang gào thét, chốc chốc lại rên rỉ, tắc nghẹn rồi im bặt. Thời gian mở của ranh giới âm dương đã tới tới. Một hàng người thấp thoáng sau làn sương mờ, dáng đi lù đù chậm chạp qua chiếc cầu. Mỗi tuần một lần ta đều đến đây. Phần vì muốn nghe tin tức trên dương gian, phần vì muốn nhìn thấy cảnh đông đúc ít gặp nơi cô đơn trống trải này, cho dù họ chỉ là âm hồn đi nữa.
Dòng người vừa đi vừa nói chuyện, trông họ cứ như đi tới một nơi ở mới chứ không phải địa ngục. Có người than vãn về cuộc sống khốn khổ trước kia của mình, có người lại hối tiếc về sự sung sướng xưa kia chưa hưởng hết. Khung cảnh nhộn nhịp và tấp nập thật ít có.
Mấy năm nay, Âu Lạc bị nhà Triệu Đà đô hộ, người chết xuống âm ti chưa bao giờ đông như thế, nước Tử Tuyền đã đỏ nay càng thêm đỏ. Họ chết vì quân giặc hung tàn, chết vì ách thống trị dã man của kẻ ngoại xâm. Nghe nói sau khi Cổ Loa thất thủ, thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Cảnh tượng vô cùng thảm khốc. Tiếng khóc than ngút tận trời xanh.Điều này làm ta vô cùng thống khổ, lỗi là tại ta, vì ta mà nên cớ sự ngày hôm nay. Những chúng dân hiền lành chất phác, họ đâu đáng bị như vậy.
Dòng người đổ xuống ngày một nhiều, họ vừa nói chuyện râm ran vừa nhìn xung quanh. Một số người nhìn thấy ta, gương mặt họ chuyển từ kinh ngạc sang tức giận, có người còn nhổ toẹt một bãi nước bọt ra điều khinh bỉ. Ta cúi đầu thay cho lời xin lỗi. Cảnh tượng này ta gặp nhiều rồi, ta cũng chẳng trách họ, mà muôn phần áy náy với họ.
Lát sau dòng người đi dần vãn, ta cũng định quay trở về thì bỗng nghe thấy một cái tên khiến ta khựng người lại, tim nảy lên một nhịp.
“Ngươi biết gì chưa? Con trai Triệu Đà tên Trọng Thủy hôm rồi hắn vừa trẫm mình xuống giếng tự tử đấy, người ta đồn hắn vì nhớ thương công chúa Mỵ Châu mà làm vậy đó.”
“Ui dào, đáng đời! Nhớ thương gì cái ngữ bội bạc như hắn, có mà hắn bị quả báo ấy, không biết khi nào hắn xuống đây nhỉ?”
“Ta không biết, chắc ba ngày sau khi chết, ta cũng thế còn gì.”
“…”
Trọng Thủy? Chàng chết rồi? Ta khẽ lẩm bẩm kinh ngạc.
NSO@Hoạ Thuỷ Tiên
FACEBOOK.COM/100007510814571
Bài viết được sao lưu trực tiếp từ Ngôi Sao Online đăng vào 02:47 ngày 22/10/2015 tại địa chỉ: http://ngoisaoonline.yn.lt/index/__xt/official-original-mi-chau-trong-thuy-nghiet-phan-bi-tinh-hoa-thuy-tien/thread-osr2ak8om6guvx3i51284fqp2yi8mk6estv3g5.html
页:
[1]